Quy mô thị trường ngành dịch vụ khách sạn tại Việt Nam được dự báo đạt 5,88 tỉ USD vào năm 2025. Ảnh: TL

 
Thanh Hằng Thứ Sáu | 20/06/2025 07:30

Cuộc đổ bộ của khách sạn quốc tế

M&A là cách nhiều thương hiệu khách sạn quốc tế mở rộng sự hiện diện tại việt Nam.

Tháng 1/2024, The Ascott Limited bắt tay với Sun Group trong dự án quản lý khách sạn, căn hộ dịch vụ thứ 2 giữa 2 bên có tên Oakwood Ha Long. Accor Group vừa bổ sung vào danh mục quản lý Sofitel Diamond Crown Hai Phong vào cuối năm 2024 và Pullman Hai Phong Grand Hotel vào đầu năm 2025. 

Cuối năm 2024, Marriott International đưa thêm cái tên Four Points by Sheraton Hà Giang vào danh sách khách sạn quản lý cho Vinpearl. Như vậy, họ đã hoàn tất thỏa thuận hợp tác nâng cấp và phát triển 8 khách sạn, khu nghỉ dưỡng với tổng số gần 2.200 phòng được ký từ giữa năm 2022. 

Gia tăng sự hiện diện

Có thể thấy sự sôi động của thị trường khách sạn qua báo cáo của Mordor Intelligence. Theo đó, quy mô thị trường ngành dịch vụ khách sạn tại Việt Nam được dự báo đạt 5,88 tỉ USD vào năm 2025 và 11,29 tỉ USD vào năm 2030, với tốc độ tăng trưởng CAGR là 13,94% mỗi năm.  

Theo Wolfgramm Capital, tỉ lệ tự điều hành khoảng 50-60% tại khách sạn dịch vụ hạn chế, nhưng các khách sạn 5 sao không thể được điều hành bằng phương thức này. “Một công ty quản lý có thể kiếm được 3% phí trên tất cả doanh thu phòng hàng đầu. Điều này đảm bảo rằng nhà điều hành được khuyến khích, ít nhất để thúc đẩy doanh thu phòng”, Wolfgramm Capital nêu ví dụ.  

Tỉ lệ thâm nhập thương hiệu cũng đang tăng lên cùng với số lượng hoạt động du lịch trong nước và quốc tế ngày càng tăng tại Việt Nam. Một số công ty lớn trên thị trường là Vinpearl, Muong Thanh Hospitality, Accor Hotels, InterContinental Hotels Group và Marriott International, cùng nhiều công ty khác.

“Sự gia tăng của các đơn vị vận hành khách sạn quốc tế tại Việt Nam phản ánh khả năng tiếp cận và mức độ hội nhập toàn cầu của Việt Nam được cải thiện rõ rệt qua các năm - một xu thế sẽ còn tiếp tục”, ông David Jackson, Tổng Giám đốc của Avison Young Việt Nam, bình luận. Việc các thương hiệu khách sạn toàn cầu hiện diện ngày càng nhiều tại Việt Nam không chỉ giúp gia tăng lựa chọn lưu trú cho du khách, kích thích tâm lý du lịch mà còn thúc đẩy sự hiện diện của cái tên Việt Nam trên bản đồ du lịch thế giới.

Tuy nhiên, để duy trì sự quan tâm từ nhà đầu tư nước ngoài và đảm bảo hiệu quả vận hành của các dự án du lịch - nghỉ dưỡng, cần sự nỗ lực toàn diện hơn trên nhiều khía cạnh của phát triển du lịch, bao gồm xây dựng chiến lược thương hiệu du lịch quốc gia, phát triển hạ tầng giải trí và nâng cấp chất lượng của các dự án phát triển bất động sản nghỉ dưỡng nhằm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế (diện tích phòng, chất lượng dịch vụ và tiêu chuẩn vận hành).

Thị trường lưu trú và nghỉ dưỡng tại Việt Nam hiện ghi nhận nhiều tín hiệu khả quan nhờ nhu cầu tăng trưởng mạnh từ cả khách quốc tế và nội địa. “Tuy nhiên, các nhà đầu tư và nhà vận hành trong ngành du lịch khách sạn cũng đối mặt với không ít thách thức”, ông David Cumming, Tổng Quản lý vùng Ascott Vietnam, Campuchia và Myanmar, chia sẻ. 

Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa những đơn vị vận hành trong và ngoài nước buộc các thương hiệu phải không ngừng đổi mới sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ. Kỳ vọng của khách hàng cũng thay đổi - họ tìm kiếm sự kết hợp giữa tiêu chuẩn quốc tế, trải nghiệm cá nhân hóa và bản sắc địa phương. Bên cạnh đó, vấn đề thiếu hụt nhân sự chất lượng cao và áp lực vận hành bền vững cũng là những yếu tố cần được giải quyết.

Đa dạng hóa danh mục thương hiệu

Thị trường bất động sản nghỉ dưỡng tại Việt Nam đang có độ cạnh tranh cao, đòi hỏi các bên tham gia thích ứng liên tục với nhiều yếu tố ngoại cảnh. Đáng chú ý, sự dịch chuyển của tệp khách hàng sang thế hệ Millennials và Gen Z đang định hình lại cách các khách sạn và khu nghỉ dưỡng được thiết kế, khai thác và vận hành. Ngay cả các thương hiệu dẫn đầu cũng phải liên tục làm mới mình để thích nghi với bối cảnh mới.

Định nghĩa thành công trong thị trường bất động sản du lịch - nghỉ dưỡng khác biệt tùy từng phân khúc. Những khách sạn quy mô nhỏ, vận hành tinh gọn có thể đạt biên lợi nhuận tốt hơn nhờ các chi phí gián tiếp thấp, trong khi thương hiệu lớn chịu áp lực chi phí vận hành cao hơn. Hiệu suất vận hành của khách sạn ở khu vực ven biển thường biến động do ảnh hưởng của mùa du lịch, trong khi khách sạn nằm trong thành phố lại vận hành tương đối ổn định hơn.

“Hoạt động kinh doanh của Ascott tại Việt Nam đang ghi nhận những tín hiệu tích cực, đặc biệt ở phân khúc khách du lịch nội địa, khách công vụ và du khách quốc tế cao cấp”, ông David Cumming chia sẻ. Để phục vụ nhóm khách hàng ngày càng phân hóa, từ gia đình nghỉ dưỡng, khách lưu trú dài hạn đến du lịch chữa lành và khám phá văn hóa, họ đẩy mạnh đa dạng hóa danh mục thương hiệu. 

Theo ông David Jackson của Avison Young, các động lực cung - cầu là yếu tố quan trọng nhất định hình triển vọng ngành du lịch nghỉ dưỡng tại Việt Nam. Trong đó, xác định hành vi và sở thích tiêu dùng là yếu tố then chốt. Các yếu tố như logistics, chi phí và quy định nhập cảnh có thể trở thành rào cản với du khách quốc tế, cản trở sự thuận tiện trong việc đi lại.

Bên cạnh đó, quy hoạch du lịch đóng vai trò quan trọng và phải được lồng ghép vào quy hoạch phát triển đô thị chung của vùng. “Hiểu rõ chân dung khách hàng mục tiêu và phát triển các sản phẩm phù hợp với nhu cầu thực tế cũng như đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng quốc tế sẽ giúp doanh nghiệp thành công trong lĩnh vực bất động sản du lịch - nghỉ dưỡng tại Việt Nam trong tương lai”, ông David Jackson nói.